MỘT SỐ ĐIỀU VỀ LUẬT TIẾP CẬN THÔNG TIN
1. Luật tiếp cận thông tin điều chỉnh những vấn đề gì? Ý nghĩa, mục đích của việc ban hành Luật tiếp cận thông tin ở nước ta?
Trả lời:
Luật tiếp cận thông tin tập trung vào việc giải quyết những vấn đề liên quan nhằm bảo đảm một người dân bình thường có thể thực hiện quyền tiếp cận thông tin của mình, bao gồm các nguyên tắc, trình tự, thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin, trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân và các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền.
Việc ban hành Luật này là nhằm cụ thể hóa Điều 25 Hiến pháp năm 2013 về quyền tiếp cận thông tin của công dân, tạo khuôn khổ pháp lý để công dân thực hiện quyền tiếp cận thông tin của mình. Việc bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin với tư cách là quyền cơ bản của công dân có ý nghĩa làm tiền đề, điều kiện cho việc thực hiện các quyền, tự do dân chủ khác của con người, của công dân mà Hiến pháp năm 2013 đã quy định, như: quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, quyền bầu cử, ứng cử, quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân, quyền khiếu nại, quyền tố cáo, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí... Đồng thời, sự ra đời của Luật tiếp cận thông tin còn là công cụ giúp phòng, chống tham nhũng; tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; tăng trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước, góp phần nâng cao tính công khai, minh bạch, hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, bao gồm các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
2. Trong đời sống thường ngày, “thông tin” là một khái niệm rất rộng và có nhiều cách hiểu khác nhau. Vậy “thông tin” theo quy định của Luật tiếp cận thông tin được hiểu như thế nào?
Trả lời:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật tiếp cận thông tin, thông tin là tin, dữ liệu được chứa đựng trong văn bản, hồ sơ, tài liệu có sẵn, tồn tại dưới dạng bản viết, bản in, bản điện tử, tranh, ảnh, bản vẽ, băng, đĩa, bản ghi hình, ghi âm hoặc các dạng khác do cơ quan nhà nước tạo ra.
Như vậy, Luật này chỉ quy định về các thông tin được chứa đựng trong các văn bản, hồ sơ, tài liệu do cơ quan nhà nước tạo ra trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, mà không phải là thông tin nói chung, thông tin truyền miệng hay các thông tin do chủ thể ngoài nhà nước tạo ra. Ví dụ: phát ngôn tại cuộc họp của một nhà lãnh đạo cấp cao; hồ sơ khách hàng của Công ty bảo hiểm nhân thọ X không được coi là thông tin mà Luật tiếp cận thông tin điều chỉnh.
3. “Thông tin do cơ quan nhà nước tạo ra” trong Luật tiếp cận thông tin được hiểu như thế nào?
Trả lời:
Tại khoản 2 Điều 2 Luật tiếp cận thông tin giải thích nội hàm của “thông tin do cơ quan nhà nước tạo ra” là tin, dữ liệu được tạo ra trong quá trình cơ quan nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật, được người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước đó ký, đóng dấu hoặc xác nhận bằng văn bản.
Thông thường, trong quá trình hoạt động, mỗi cơ quan nhà nước có thể tạo ra, nhận được và lưu giữ rất nhiều loại thông tin chứa đựng trong các hồ sơ, tài liệu. Đó có thể là các tài liệu do chính cơ quan đó tạo ra, hoặc nhận được từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác gửi tới để trao đổi thông tin, yêu cầu giải quyết công việc hoặc để triển khai thực hiện một nhiệm vụ cụ thể. Để xác định chính xác nội hàm của khái niệm “thông tin do cơ quan nhà nước tạo ra”, đồng thời gắn liền với trách nhiệm bảo đảm thông tin đó thuộc về cơ quan nhà nước và cơ quan đó có trách nhiệm bảo đảm tính chính xác, chính thức của thông tin do mình tạo ra, Luật khẳng định thông tin đó là tin, dữ liệu được tạo ra trong quá trình cơ quan nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật và phải được người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước đó ký, đóng dấu hoặc xác nhận bằng văn bản. Việc ký, đóng dấu thể hiện rõ hồ sơ, tài liệu, văn bản đó đã được cơ quan nhà nước cụ thể ban hành chính thức, ví dụ: các quyết định phê duyệt danh mục đầu tư, kế hoạch, chiến lược đã được ban hành, có ký tên, đóng dấu của cấp có thẩm quyền.
Ngoài ra, quy định này còn nhằm phân biệt với các trường hợp thông tin do cơ quan nhà nước trao đổi, trả lời kiến nghị, hỏi đáp của công dân về một vấn đề cụ thể liên quan tới lĩnh vực quản lý, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan đó, ví dụ: nội dung hướng dẫn về thủ tục đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài, về nhận nuôi con nuôi, về cho thôi quốc tịch... Đây là trường hợp cơ quan nhà nước trả lời phản ánh, kiến nghị của công dân và để trả lời được thì cơ quan đó phải nghiên cứu các quy định của văn bản pháp luật cụ thể và tổng hợp thành nội dung để gửi tới công dân, nội dung trả lời đó không thuộc nội hàm của khái niệm “thông tin do cơ quan nhà nước tạo ra” tại Luật tiếp cận thông tin.
4. Thế nào là “cung cấp thông tin do mình tạo ra”? “Đơn vị chủ trì tạo ra thông tin” được hiểu như thế nào?
Trả lời:
Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan nhà nước thường trực tiếp nắm giữ 02 nhóm thông tin gồm: (i) thông tin do cơ quan nhà nước đó tạo ra; (ii) thông tin nhận được từ cơ quan khác cung cấp trong quá trình phối hợp hoạt động (thông tin cơ quan nhà nước không tạo ra nhưng được nắm giữ do quá trình thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước).
Theo quy định của Luật, về cơ bản, cơ quan nhà nước có trách nhiệm trực tiếp cung cấp thông tin do cơ quan mình (bao gồm cả trường hợp cơ quan mình làm đầu mối) tạo ra trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Tuy nhiên, đối với một số cơ quan tạo ra thông tin nhưng do tính chất đặc biệt trong tổ chức và hoạt động của mình như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân không thể tự mình cung cấp thông tin do mình tạo ra thì sẽ do các cơ quan phục vụ đang nắm giữ thông tin của các cơ quan này cung cấp, như Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Hội đồng nhân dân...
Bên cạnh đó, để bảo đảm thuận tiện cho công dân trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin, giảm bớt chi phí cho công dân, Luật quy định trách nhiệm của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (là cấp chính quyền gần dân nhất) bên cạnh việc cung cấp các thông tin do mình tạo ra thì còn có trách nhiệm cung cấp các thông tin nhận được từ cơ quan khác (do các cơ quan khác tạo ra và gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã).
Về “đơn vị chủ trì tạo ra thông tin” quy định trong dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật tiếp cận thông tin được hiểu là đơn vị đó tham gia trực tiếp vào quá trình tạo ra thông tin đó (trực tiếp tham mưu cho cấp có thẩm quyền soạn thảo văn bản, trình cấp có thẩm quyền ký hoặc phê duyệt văn bản, hồ sơ, tài liệu) theo chức năng, nhiệm vụ của đơn vị đó.
5. Ngoài việc tiếp cận thông tin theo quy định của Luật tiếp cận thông tin và các văn bản quy định chi tiết, người dân còn có thể tiếp cận thông tin theo quy định của những văn bản quy phạm pháp luật nào khác hay không?
Trả lời:
Trước khi có Luật tiếp cận thông tin, tại các văn bản pháp luật trong từng lĩnh vực cụ thể đã quy định về việc công bố công khai thông tin của cơ quan nhà nước, như trong lĩnh vực đất đai, quy hoạch, xây dựng, nhà ở, ngân sách, tài chính, đầu tư, phòng chống tham nhũng... để công dân được tiếp cận. Để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về tiếp cận thông tin theo nội dung, tinh thần mới của Hiến pháp năm 2013 về quyền tiếp cận thông tin của công dân, Luật tiếp cận thông tin và các văn bản quy định chi tiết được ban hành nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân có thể thực hiện tối đa quyền tiếp cận thông tin của mình cũng như tăng cường trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin. Đồng thời, tại Luật đã quy định nguyên tắc áp dụng pháp luật về tiếp cận thông tin (Điều 16), theo đó, ngoài việc tiếp cận thông tin theo quy định của Luật tiếp cận thông tin và các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật này, thì người dân còn có thể tiếp cận thông tin theo quy định của các luật khác nếu các luật đó có quy định về việc tiếp cận thông tin và không trái với nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin được quy định tại Điều 3 Luật tiếp cận thông tin.
6. Bản án, các quyết định của Tòa án và hồ sơ các vụ việc sau khi có phán quyết của Tòa án, công văn của các cơ quan nhà nước có là thông tin thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật tiếp cận thông tin hay không?
Trả lời:
Mặc dù Luật tiếp cận thông tin quy định các cơ quan thuộc hệ thống tư pháp như Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cũng là một trong các chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin, nhưng cần lưu ý rằng việc tiếp cận, cung cấp các thông tin mang tính tư pháp (tức là thông tin có liên quan đến việc xử lý các vụ việc tư pháp cụ thể, như bản án, quyết định của Tòa án và hồ sơ các vụ việc sau khi có phán quyết của Tòa án) phải thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng và các quy định khác có liên quan.
Trên thực tế, các thông tin mang tính tư pháp là loại thông tin chiếm khối lượng lớn trong số thông tin do các cơ quan này tạo ra. Còn theo quy định của Luật tiếp cận thông tin, trách nhiệm, trình tự, thủ tục cung cấp thông tin của cơ quan tư pháp là áp dụng đối với những thông tin mang tính hành chính, điều hành trong hoạt động của các cơ quan tư pháp mà cơ quan tư pháp cần thiết công khai cho công chúng (ví dụ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, quy trình giải quyết công việc liên quan đến người dân...) hoặc người dân có nhu cầu được cung cấp thông tin do liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ cụ thể của họ. Do vậy, trong hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát, khi xác định trách nhiệm cung cấp thông tin của các cơ quan tư pháp, cần phân biệt rõ thông tin nào thuộc phạm vi được cung cấp theo quy định của Luật tiếp cận thông tin để áp dụng các quy định pháp luật cho phù hợp, nhất là để bảo vệ những thông tin cần phải giữ bí mật trong quy trình tố tụng.
Công văn của các cơ quan nhà nước là những tài liệu được tạo ra trong quá trình cơ quan nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật, đã được người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước đó ký, đóng dấu hoặc xác nhận bằng văn bản nên cũng là các thông tin thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật tiếp cận thông tin. Tuy nhiên, các công văn này không phải là các thông tin phải được cơ quan nhà nước công khai rộng rãi; việc cung cấp công văn theo yêu cầu của công dân chỉ xảy ra khi người yêu cầu nêu rõ nội dung công văn đó có liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ. Các công văn này là văn bản chính thức giữa các cơ quan nhà nước với nhau hoặc giữa cơ quan nhà nước với tổ chức, công dân, phát sinh trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan nhà nước.
7. Hồ sơ, tài liệu, biên bản các cuộc thảo luận phục vụ cho quá trình ra quyết định của cơ quan nhà nước có phải là thông tin thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật tiếp cận thông tin không?
Trả lời:
Hồ sơ, tài liệu, biên bản các cuộc thảo luận phục vụ cho quá trình ra quyết định của cơ quan nhà nước chưa phải là sản phẩm cuối cùng, chưa được người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước ký, đóng dấu hoặc xác nhận bằng văn bản. Những văn bản, hồ sơ, tài liệu còn đang trong quá trình chuẩn bị, chưa phải là thông tin chính thức thì cơ quan nhà nước không có nghĩa vụ phải cung cấp. Thậm chí, cơ quan nhà nước không được cung cấp các thông tin không chính thống, không chính xác dẫn đến sự hiểu lầm của công chúng về quan điểm, chính sách của các cơ quan nhà nước và có thể việc cung cấp thông tin gây hậu quả không tốt cho xã hội. Theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật tiếp cận thông tin thì hồ sơ, tài liệu, biên bản không phải là thông tin thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật tiếp cận thông tin.
8. Thế nào là “tiếp cận thông tin”, “cung cấp thông tin” theo quy định của Luật tiếp cận thông tin?
Trả lời:
Theo quy định tại khoản 3 Điều 2 Luật tiếp cận thông tin, tiếp cận thông tin được hiểu là các biện pháp, phương thức để người dân biết được thông tin đó, bao gồm đọc, xem, nghe, ghi chép, sao chép, chụp thông tin.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 2 Luật tiếp cận thông tin, cung cấp thông tin được hiểu là các biện pháp để cơ quan nhà nước chuyển tải thông tin đến người dân, bao gồm việc cơ quan nhà nước công khai thông tin và cung cấp thông tin theo yêu cầu của công dân.
9. Việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin được thực hiện theo những nguyên tắc nào?
Trả lời:
Quyền tiếp cận thông tin là một trong những quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận. Thể chế hóa nguyên tắc Hiến định, Luật tiếp cận thông tin quy định nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin (khoản 1 Điều 3). Nhằm đề cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc cung cấp thông tin, Luật này cũng quy định nguyên tắc thông tin được cung cấp phải chính xác, đầy đủ; việc cung cấp thông tin phải kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân; đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật (khoản 2 và khoản 3 Điều 3).
Bên cạnh đó, phù hợp với các nguyên tắc của Hiến pháp năm 2013 về tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân, Luật tiếp cận thông tin quy định nguyên tắc việc hạn chế quyền tiếp cận thông tin phải do luật định và trong các trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức hoặc của người khác (khoản 4 và khoản 5 Điều 3).
Để bảo đảm mọi công dân được tạo điều kiện thuận lợi nhất trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của mình, nhất là đối với các đối tượng có điều kiện khó khăn, Luật tiếp cận thông tin quy định nguyên tắc: Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để người khuyết tật, người sinh sống ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thực hiện quyền tiếp cận thông tin (khoản 6 Điều 3).
10. Luật tiếp cận thông tin có cơ chế nào bảo đảm việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của người khuyết tật, người sinh sống ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người mất hoặc chưa đủ năng lực hành vi dân sự?
Trả lời:
Một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật tiếp cận thông tin là bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin. Chính vì vậy, Luật quy định trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo điều kiện thuận lợi để người khuyết tật, người sinh sống ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thực hiện quyền tiếp cận thông tin (khoản 6 Điều 3). Trong trường hợp công khai thông tin, ngoài các hình thức công khai thông tin quy định tại khoản 1 Điều 18 của Luật, cơ quan nhà nước phải xác định hình thức công khai thông tin phù hợp với khả năng, điều kiện tiếp cận thông tin của công dân (khoản 3 Điều 18). Trong trường hợp cung cấp thông tin theo yêu cầu, cơ quan nhà nước cũng cần thực hiện các biện pháp hỗ trợ người yêu cầu cung cấp thông tin là người khuyết tật, người không biết chữ, ví dụ như giúp họ điền các nội dung vào Phiếu yêu cầu cung cấp thông tin. Cơ quan cung cấp thông tin có trách nhiệm đa dạng hóa các hình thức, phương thức cung cấp thông tin phù hợp với khả năng tiếp cận của người yêu cầu cung cấp thông tin; bố trí thiết bị nghe - nhìn và các thiết bị phụ trợ phù hợp với dạng và mức độ khuyết tật phù hợp với điều kiện thực tiễn của cơ quan, ưu tiên cung cấp thông tin cho người khuyết tật theo quy định pháp luật về tiếp cận thông tin và pháp luật về người khuyết tật.
Luật tiếp cận thông tin cũng quy định việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của nhóm đối tượng là người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và người dưới 18 tuổi. Theo đó, những đối tượng này thực hiện quyền tiếp cận thông tin thông qua người đại diện theo pháp luật, người giám hộ, trừ trường hợp pháp luật liên quan có quy định khác (khoản 2 và khoản 3 Điều 4).
11. Trong trường hợp Luật tiếp cận thông tin và các luật khác có quy định khác nhau về việc tiếp cận thông tin thì áp dụng quy định của luật nào?
Trả lời:
Luật tiếp cận thông tin áp dụng chung cho việc tiếp cận thông tin của công dân. Tuy nhiên, nhằm tạo điều kiện để người dân thực hiện tối đa quyền tiếp cận thông tin của mình, Luật tiếp cận thông tin cũng quy định nguyên tắc áp dụng pháp luật: trong trường hợp luật khác có quy định về việc tiếp cận thông tin mà không trái với các nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin quy định tại Điều 3 của Luật tiếp cận thông tin thì được thực hiện theo quy định của luật đó (Điều 16).
12. Thông tin đã chuyển sang lưu trữ thì tiếp cận theo cách thức nào?
Trả lời:
Theo quy định của Luật lưu trữ thì có hai hình thức lưu trữ là lưu trữ cơ quan và lưu trữ lịch sử. Trong thời hạn 01 năm kể từ ngày công việc kết thúc, hoặc trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày công trình được quyết toán đối với hồ sơ, tài liệu xây dựng cơ bản, thì hồ sơ, tài liệu được nộp vào lưu trữ cơ quan. Đối với trường hợp lưu trữ lịch sử, trong thời hạn 10 năm kể từ năm công việc kết thúc, cơ quan, tổ chức thuộc Danh mục cơ quan, tổ chức thuộc nguồn nộp lưu tài liệu có trách nhiệm nộp lưu tài liệu có giá trị bảo quản vĩnh viễn vào lưu trữ lịch sử.
Đối với trường hợp lưu trữ cơ quan, Luật lưu trữ quy định người đứng đầu cơ quan, tổ chức căn cứ quy định của Luật lưu trữ và các quy định khác của pháp luật có liên quan quy định việc sử dụng tài liệu lưu trữ tại lưu trữ cơ quan của cơ quan, tổ chức mình. Do đó, công dân có thể sử dụng tài liệu lưu trữ tại lưu trữ cơ quan của cơ quan nhà nước theo quy định của Luật lưu trữ. Ngoài ra, công dân cũng có thể tiếp cận tài liệu lưu trữ cơ quan theo quy định của Luật tiếp cận thông tin nếu thực hiện quyền tiếp cận thông tin theo quy định của Luật tiếp cận thông tin (công dân có Phiếu yêu cầu cung cấp thông tin, tuân thủ các trình tự, thủ tục tiếp cận thông tin, giới hạn phạm vi thông tin được tiếp cận theo quy định của Luật tiếp cận thông tin).
Dự thảo Nghị định quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật tiếp cận thông tin cũng quy định việc tiếp cận thông tin được tạo ra trước ngày 01 tháng 7 năm 2018 (trước ngày Luật có hiệu lực) được tiếp tục thực hiện theo quy định của pháp luật ban hành trước ngày Luật tiếp cận thông tin có hiệu lực và phải bảo đảm phù hợp với quy định tại Điều 3 của Luật.
Trường hợp thông tin đã được chuyển sang lưu trữ lịch sử thì được tiếp cận theo quy định của Luật lưu trữ, do các thông tin lưu trữ lịch sử có sự khác biệt cơ bản, cần được điều chỉnh riêng với những quy định hết sức chặt chẽ nên không thuộc diện được tiếp cận theo các hình thức thông thường như các loại thông tin khác được quy định trong Luật tiếp cận thông tin.
13. Trường hợp nhà báo tiếp cận thông tin phục vụ cho tác nghiệp báo chí thì thực hiện theo quy định của Luật tiếp cận thông tin hay Luật báo chí?
Trả lời:
Báo chí là cơ quan ngôn luận của cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; là diễn đàn của Nhân dân. Báo chí có nhiệm vụ thông tin trung thực về tình hình đất nước và thế giới phù hợp với lợi ích của đất nước và của Nhân dân; tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thành tựu của đất nước và thế giới theo tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí... Với vai trò như trên, Luật báo chí có những quy định riêng, hết sức chặt chẽ và đầy đủ để điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hoạt động báo chí, trong đó có những quy định liên quan đến việc nhà báo tiếp cận thông tin để phục vụ cho tác nghiệp báo chí; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc cung cấp thông tin cho nhà báo, cơ quan báo chí. Trong khi đó, Luật tiếp cận thông tin chỉ quy định các vấn đề liên quan đến việc công dân thực hiện quyền tiếp cận thông tin để phục vụ cho mục đích cá nhân. Do đó, trong trường hợp nhà báo tiếp cận thông tin phục vụ cho tác nghiệp báo chí thì được thực hiện theo quy định về cung cấp thông tin cho báo chí tại Luật báo chí.
14. Công dân được tiếp cận những thông tin nào của cơ quan nhà nước?
Trả lời:
Nhằm tối đa hóa phạm vi thông tin được tiếp cận cũng như bảo đảm công khai, minh bạch trong các quy định của Luật, tại Luật tiếp cận thông tin quy định rõ phạm vi các thông tin của cơ quan nhà nước mà công dân được tiếp cận. Theo đó, tại Điều 5 của Luật quy định, công dân được tiếp cận thông tin của cơ quan nhà nước, trừ thông tin không được tiếp cận quy định tại Điều 6 của Luật này. Bên cạnh đó, công dân cũng được tiếp cận có điều kiện đối với những thông tin quy định tại Điều 7 Luật tiếp cận thông tin.
Quy định loại trừ thông tin không được tiếp cận xuất phát từ nguyên tắc quyền tiếp cận thông tin là quyền có giới hạn. Giới hạn quan trọng đối với quyền tiếp cận thông tin là phạm vi thông tin được tiếp cận. Phạm vi thông tin được tiếp cận loại trừ các thông tin mà việc cung cấp có thể gây hại đối với các lợi ích quan trọng mà Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ như thông tin bí mật nhà nước, thông tin mà việc cung cấp có thể gây nguy hại cho Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến quốc phòng, an ninh quốc gia, quan hệ quốc tế, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; gây nguy hại đến tính mạng, cuộc sống hoặc tài sản của người khác; thông tin thuộc bí mật công tác; thông tin về cuộc họp nội bộ của cơ quan nhà nước; tài liệu do cơ quan nhà nước soạn thảo cho công việc nội bộ...
15. Những thông tin nào của cơ quan nhà nước mà công dân không được tiếp cận theo quy định của Luật tiếp cận thông tin?
Trả lời:
Căn cứ nguyên tắc hạn chế quyền công dân được quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013[1] và trên cơ sở rà soát hệ thống pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước, bảo vệ hồ sơ, tài liệu trong các văn bản pháp luật hiện hành, tại Điều 6 Luật tiếp cận thông tin quy định các loại thông tin mà công dân không được tiếp cận bao gồm:
(i) Thông tin thuộc bí mật nhà nước, bao gồm những thông tin có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ và các lĩnh vực khác theo quy định của luật.
Đối với thông tin thuộc những loại trên, công dân không được tiếp cận, theo đó, cơ quan nhà nước không công khai thông tin để công dân tiếp cận hoặc nếu công dân yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin thì yêu cầu của công dân sẽ bị từ chối.
Tuy nhiên, khi thông tin thuộc bí mật nhà nước được giải mật thì công dân được tiếp cận theo quy định của Luật tiếp cận thông tin. Quy định này cũng đã đặt ra nguyên tắc để sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước hiện nay nhằm bảo đảm thực hiện được quyền tiếp cận thông tin sau giải mật và trách nhiệm của cơ quan nhà nước phải cung cấp thông tin sau giải mật.
(ii) Thông tin mà nếu để tiếp cận sẽ gây nguy hại đến lợi ích của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến quốc phòng, an ninh quốc gia, quan hệ quốc tế, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; gây nguy hại đến tính mạng, cuộc sống hoặc tài sản của người khác; thông tin thuộc bí mật công tác; thông tin về cuộc họp nội bộ của cơ quan nhà nước; tài liệu do cơ quan nhà nước soạn thảo cho công việc nội bộ.
Trong trường hợp này, công dân không được tiếp cận thông tin nếu cơ quan nhà nước qua phân tích đánh giá thấy rằng việc cung cấp thông tin là có hại đối với các lợi ích hợp pháp mà Nhà nước và pháp luật bảo vệ.
16. Những thông tin nào của cơ quan nhà nước mà công dân có thể tiếp cận trong những điều kiện nhất định?
Trả lời:
Điều 7 Luật tiếp cận thông tin quy định các trường hợp thông tin của cơ quan nhà nước mà công dân được tiếp cận có điều kiện, cụ thể là:
(i) Thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh được tiếp cận trong trường hợp chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó đồng ý;
Theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ, bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh. Tuy nhiên, không phải mọi thông tin có đặc điểm như trên được coi là thông tin bí mật kinh doanh được bảo hộ. Thông tin bí mật kinh doanh chỉ được bảo hộ nếu đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ và khi đó, thông tin này sẽ được Nhà nước bảo đảm không cung cấp nếu không có sự đồng ý của chủ sở hữu.
(ii) Thông tin liên quan đến bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân được tiếp cận trong trường hợp được người đó đồng ý;
(iii) Thông tin liên quan đến bí mật gia đình được tiếp cận trong trường hợp được các thành viên gia đình đồng ý.
Các loại thông tin nêu trên thuộc về các loại bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật như Hiến pháp, Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Luật giao dịch điện tử, Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân... và là các thông tin được Nhà nước bảo đảm không cung cấp cho bất kỳ công dân nào. Tuy nhiên, nhằm tôn trọng quyền của cá nhân đối với thôthông tin về bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, Luật tiếp cận thông tin quy định trong trường hợp có sự đồng ý của cá nhân hoặc các thành viên gia đình thì các loại thông tin này có thể được Nhà nước cung cấp.
17. Cơ sở để xác định việc cung cấp thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình mà không cần sự đồng ý của chủ sở hữu/cá nhân/các thành viên gia đình là gì?
Trả lời:
Khoản 3 Điều 7 Luật tiếp cận thông tin quy định: trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, người đứng đầu cơ quan nhà nước quyết định việc cung cấp thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình trong trường hợp cần thiết vì lợi ích công cộng, sức khỏe của cộng đồng theo quy định của luật có liên quan mà không cần có sự đồng ý của chủ sở hữu bí mật kinh doanh, cá nhân, các thành viên gia đình theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 7 Luật tiếp cận thông tin.
Quy định này hướng đến việc ưu tiên bảo vệ lợi ích công cộng và sức khỏe cộng đồng. Chỉ trong trường hợp cần thiết vì lợi ích công cộng và sức khỏe cộng đồng, người có thẩm quyền mới được quyết định việc cung cấp thông tin liên quan đến các bí mật nêu trên mà không cần sự đồng ý của các chủ thể được nêu tại khoản 1 và khoản 2 Điều 7 Luật tiếp cận thông tin.
18. Bằng chứng thể hiện cá nhân/các thành viên trong gia đình đồng ý cung cấp thông tin liên quan đến cá nhân/gia đình là gì? Trường hợp thông tin có liên quan đến bí mật gia đình thì có cần phải được tất cả các thành viên trong gia đình đồng ý không?
Trả lời:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Luật tiếp cận thông tin, đối với thông tin liên quan đến bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân thì công dân được tiếp cận khi được người đó đồng ý. Đối với thông tin liên quan đến bí mật gia đình thì công dân được tiếp cận khi được các thành viên gia đình đồng ý. Tức là cần phải được tất cả các thành viên trong gia đình đồng ý.
Sự đồng ý của cá nhân/các thành viên trong gia đình phải được thể hiện bằng văn bản. Do đó, dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật tiếp cận thông tin đã xây dựng Mẫu văn bản chấp thuận của cá nhân, tổ chức liên quan.
Văn bản chấp thuận phải thể hiện rõ nội dung: cá nhân là chủ sở hữu thông tin liên quan đến bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân hoặc là thành viên của gia đình có thông tin liên quan đến bí mật gia đình đồng ý để người yêu cầu cung cấp thông tin được tiếp cận đối với thông tin nêu trên.
Văn bản chấp thuận phải được xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cá nhân là chủ sở hữu thông tin liên quan đến bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân hoặc gia đình đó cư trú.
19. Trong trường hợp thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh có đồng chủ sở hữu thì có cần phải được tất cả các chủ sở hữu đồng ý cung cấp hay không?
Trả lời:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật tiếp cận thông tin, công dân được tiếp cận đối với thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh khi chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó[2] đồng ý.
Trường hợp thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh có đồng chủ sở hữu thì công dân chỉ được tiếp cận đối với bí mật kinh doanh đó khi các đồng chủ sở hữu đồng ý, trừ trường hợp các chủ sở hữu ủy quyền cho một chủ sở hữu quyết định việc đồng ý cung cấp thông tin. Cơ chế chấp thuận này nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu bí mật kinh doanh có liên quan.
Cần lưu ý, đây phải là các thông tin do các cơ quan nhà nước quản lý trong các lĩnh vực có liên quan tới bí mật kinh doanh tạo ra và nắm giữ, quản lý. Đối với thông tin bí mật kinh doanh thuộc quản lý và sở hữu của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân mà các chủ thể này tự ý cung cấp thì thực hiện theo thỏa thuận dân sự, không thực hiện theo quy trình tại Luật này.
Văn bản chấp thuận phải thể hiện rõ nội dung: cá nhân là chủ sở hữu bí mật kinh doanh đồng ý để người yêu cầu cung cấp thông tin được tiếp cận đối với thông tin nêu trên.
Trong trường hợp cá nhân là chủ sở hữu có văn bản chấp thuận thì văn bản chấp thuận phải được xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cá nhân đó cư trú.
Trong trường hợp tổ chức, doanh nghiệp là chủ sở hữu có văn bản chấp thuận thì người đại diện cho tổ chức, doanh nghiệp đó ký, đóng dấu mà không cần xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã.
20. Tại sao Luật tiếp cận thông tin chỉ quy định về việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin đối với công dân? Luật có cơ chế nào cho phép người nước ngoài có thể tiếp cận thông tin không?
Trả lời:
Điều 25 Hiến pháp năm 2013 quy định quyền tiếp cận thông tin là của công dân. Do đó, để cụ thể hóa chính xác, đầy đủ quyền tiếp cận thông tin của công dân được quy định tại Điều 25 Hiến pháp năm 2013, Luật tiếp cận thông tin chỉ quy định về việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân. Tại khoản 1 Điều 4 của Luật khẳng định: công dân thực hiện quyền tiếp cận thông tin theo quy định của Luật này.
Thực tế cho thấy, trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và thực hiện chủ trương mở rộng hợp tác, thu hút đầu tư nước ngoài, một số lượng lớn nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam làm ăn, sinh sống, người Việt Nam định cư ở nước ngoài có quốc tịch nước ngoài về Việt Nam đầu tư, kinh doanh cũng có nhu cầu được tiếp cận thông tin để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, theo quy định của Luật tiếp cận thông tin, người nước ngoài có quyền tiếp cận các thông tin công khai rộng rãi theo quy định của Luật mà không bị giới hạn. Riêng đối với các thông tin được cung cấp theo yêu cầu, những người này chỉ được yêu cầu cung cấp những thông tin có liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của họ (khoản 1 Điều 36 Luật tiếp cận thông tin).
Trình tự, thủ tục yêu cầu cung cấp thông tin đối với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam được áp dụng theo các quy định tại Chương III Luật tiếp cận thông tin (khoản 1 Điều 36 Luật tiếp cận thông tin).
21. Tổ chức, doanh nghiệp có được tiếp cận thông tin theo quy định của Luật tiếp cận thông tin không?
Trả lời:
Nhằm cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về quyền tiếp cận thông tin của công dân, Luật tiếp cận thông tin chỉ quy định về việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân, nguyên tắc, trình tự, thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin, trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân.
Đối với tổ chức, doanh nghiệp, qua rà soát hệ thống pháp luật hiện hành cho thấy, hiện nay, các tổ chức, doanh nghiệp có quyền tiếp cận các thông tin theo quy định của pháp luật chuyên ngành[3].
Đối với các thông tin theo quy định của Luật tiếp cận thông tin, có thể thấy rằng các tổ chức, doanh nghiệp hoàn toàn có thể tiếp cận đối với thông tin công bố công khai. Đối với thông tin được cung cấp theo yêu cầu, do việc cung cấp thông tin chỉ được thực hiện khi có yêu cầu hợp lệ của một cá nhân công dân cụ thể, nên trong trường hợp tổ chức, doanh nghiệp có nhu cầu tiếp cận một thông tin nhất định, tổ chức, doanh nghiệp có thể cử người đại diện cho tổ chức, doanh nghiệp để yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin theo các điều kiện, trình tự, thủ tục quy định tại Luật tiếp cận thông tin.
22. Việc cung cấp thông tin theo yêu cầu cho công dân thông qua tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp được thực hiện như thế nào?
Trả lời:
Để tạo thuận lợi tối đa cho công dân yêu cầu cung cấp thông tin, đồng thời, giảm tải cho cơ quan nhà nước trong việc cung cấp thông tin cho nhiều người có cùng yêu cầu cung cấp thông tin, khoản 2 Điều 36 Luật tiếp cận thông tin quy định: công dân có thể yêu cầu cung cấp thông tin thông qua tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp của mình trong trường hợp nhiều người của tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp đó cùng có yêu cầu cung cấp thông tin giống nhau.
Dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật tiếp cận thông tin được xây dựng theo hướng quy định cụ thể như sau:
- Việc yêu cầu cung cấp thông tin của công dân thông qua tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp (sau đây gọi chung là tổ chức) được thực hiện trong trường hợp nhiều người trong tổ chức có cùng yêu cầu tiếp cận đối với thông tin giống nhau. Tổ chức yêu cầu cung cấp thông tin có trách nhiệm cử người đại diện để thực hiện việc yêu cầu cung cấp thông tin.
- Người đại diện có trách nhiệm lập Danh sách những người có cùng yêu cầu cung cấp thông tin giống nhau, gửi Phiếu yêu cầu cung cấp thông tin kèm theo Danh sách những người yêu cầu đến cơ quan có trách nhiệm cung cấp thông tin và thực hiện việc yêu cầu cung cấp thông tin theo quy định.
Danh sách những người yêu cầu cung cấp thông tin phải có đầy đủ các nội dung sau: Họ, tên; số chứng minh nhân dân hoặc thẻ căn cước công dân/Hộ chiếu và lý do, mục đích của từng người yêu cầu.
- Trình tự, thủ tục cung cấp thông tin theo yêu cầu cho công dân thông qua tổ chức được thực hiện theo quy định tại Luật tiếp cận thông tin.
23. Những cơ quan nào có trách nhiệm cung cấp thông tin?
Trả lời:
Xuất phát từ quan điểm chỉ đạo là Luật tiếp cận thông tin điều chỉnh mối quan hệ về tiếp cận thông tin giữa Nhà nước và công dân, do đó, Luật này quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, từ cơ quan lập pháp, hành pháp, đến cơ quan tư pháp, từ các cơ quan trung ương đến các cơ quan ở địa phương (như Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội; Chủ tịch nước, Văn phòng Chủ tịch nước; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; các cơ quan được tổ chức theo ngành dọc trực thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp; Kiểm toán nhà nước; Hội đồng nhân dân các cấp; Uỷ ban nhân dân các cấp...) trong việc cung cấp thông tin cho công dân.
Khoản 1 Điều 9 Luật tiếp cận thông tin quy định: cơ quan nhà nước có trách nhiệm cung cấp thông tin do mình tạo ra, trừ trường hợp quy định tại Điều 6 của Luật này; đối với trường hợp quy định tại Điều 7 của Luật này thì cơ quan nhà nước cung cấp thông tin khi có đủ điều kiện theo quy định.
Đối với Ủy ban nhân dân cấp xã, do Ủy ban nhân dân cấp xã là nơi tiếp nhận hầu hết các thông tin chính thức của các cơ quan nhà nước cấp trên (như các chủ trương, chính sách, văn bản pháp luật...) và là cấp cơ sở gần với người dân nhất, là nơi cung cấp và giải đáp mọi nhu cầu, vướng mắc cho người dân, nên để tạo thuận lợi cho công dân và giảm chi phí tiếp cận thông tin cho công dân, Luật tiếp cận thông tin quy định: ngoài trách nhiệm cung cấp thông tin do mình và do các cơ quan ở cấp mình tạo ra, Ủy ban nhân dân cấp xã còn có trách nhiệm cung cấp thông tin do mình nhận được từ cơ quan khác để trực tiếp thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, trừ trường hợp quy định tại Điều 6 của Luật này; đối với trường hợp quy định tại Điều 7 của Luật này thì cung cấp thông tin khi có đủ điều kiện theo quy định (khoản 1 và điểm h khoản 2 Điều 9 Luật tiếp cận thông tin).
24. Trong trường hợp cơ quan nhà nước có các đơn vị tổ chức sự nghiệp công lập thì việc tiếp cận thông tin do các đơn vị này tạo ra và nắm giữ được thực hiện như thế nào?
Trả lời:
Quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật tiếp cận thông tin là mở dần từng bước để bảo đảm tính khả thi và phù hợp với điều kiện thực tiễn của nước ta, do đó, Luật chỉ tập trung quy định trách nhiệm cung cấp thông tin của các cơ quan nhà nước.
Do đó, đối với các tổ chức sự nghiệp dịch vụ công, đây là các tổ chức cũng tạo ra và nắm giữ những thông tin liên quan đến tình hình thực hiện nhiệm vụ, quản lý, sử dụng tài chính, ngân sách nhà nước, kết quả thực hiện chính sách, dự án lớn của Nhà nước, các vấn đề liên quan đến tổ chức thực hiện dịch vụ công... là những thông tin được người dân quan tâm và có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của công dân. Tuy nhiên, Luật tiếp cận thông tin không điều chỉnh việc cung cấp thông tin của các chủ thể này.
Việc cung cấp các thông tin của các tổ chức này (trong đó có đơn vị sự nghiệp công lập) được thực hiện theo quy định của pháp luật liên quan và theo điều lệ, quy chế của các tổ chức đó.
Ví dụ: Luật giáo dục, Luật giáo dục đại học và các văn bản pháp luật liên quan đã quy định trách nhiệm của các cơ sở giáo dục trong việc công khai kết quả kiểm định chất lượng giáo dục, mức thu học phí, lệ phí tuyển sinh, chế độ tài chính, kế toán, kiểm toán, thuế và công khai tài chính... Luật phòng, chống tham nhũng cũng quy định trách nhiệm của các cơ quan quản lý giáo dục, cơ sở giáo dục trong việc công khai các thông tin về tuyển sinh, thi, kiểm tra, cấp văn bằng, chứng chỉ, công khai việc quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước, việc thu, quản lý, sử dụng học phí, lệ phí tuyển sinh, các khoản thu từ hoạt động tư vấn, chuyển giao công nghệ, các khoản hỗ trợ, đầu tư cho giáo dục và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy, có thể thấy, mặc dù Luật tiếp cận thông tin không quy định việc cung cấp thông tin của các đơn vị sự nghiệp công lập trong các lĩnh vực, nhưng các tổ chức này vẫn phải thực hiện việc cung cấp thông tin theo các quy định của pháp luật chuyên ngành.
25. Cơ quan nào chịu trách nhiệm trực tiếp cung cấp thông tin của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân?
Trả lời:
Khoản 2 Điều 9 Luật tiếp cận thông tin quy định nguyên tắc: Cơ quan nhà nước trực tiếp tổ chức thực hiện việc cung cấp thông tin do mình tạo ra. Tuy nhiên, khoản này của Luật cũng quy định một số cơ quan có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc cung cấp thông tin do các cơ quan khác tạo ra, cụ thể là:
(i) Văn phòng Quốc hội có trách nhiệm cung cấp thông tin do Quốc hội, cơ quan của Quốc hội, cơ quan thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng bầu cử quốc gia tạo ra và thông tin do mình tạo ra;
(ii) Văn phòng Chủ tịch nước có trách nhiệm cung cấp thông tin do Chủ tịch nước tạo ra và thông tin do mình tạo ra;
(iii) Văn phòng Chính phủ có trách nhiệm cung cấp thông tin do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tạo ra và thông tin do mình tạo ra;
(iv) Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội có trách nhiệm cung cấp thông tin do Đoàn đại biểu Quốc hội tạo ra và thông tin do mình tạo ra;
(v) Văn phòng Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm cung cấp thông tin do Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các cơ quan của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh tạo ra và thông tin do mình tạo ra;
(vi) Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm cung cấp thông tin do Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tạo ra và thông tin do mình tạo ra;
(vii) Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm cung cấp thông tin do Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các cơ quan của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện tạo ra và thông tin do mình tạo ra.
(viii) Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm cung cấp cho công dân cư trú trên địa bàn thông tin do mình và do các cơ quan ở cấp mình tạo ra, thông tin do mình nhận được để trực tiếp thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; cung cấp cho công dân khác thông tin này trong trường hợp liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Sưu tầm từ Trang thông tin điện tử UBND xã Cẩm Trung, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh. http://xacamtrung.hatinh.gov.vn/vi/news/thong-tin-tuyen-truyen/mot-so-dieu-ve-luat-tiep-can-thong-tin-181.html
[1] Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
[2] Theo khoản 3 Điều 121 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009): Chủ sở hữu bí mật kinh doanh là tổ chức, cá nhân có được bí mật kinh doanh một cách hợp pháp và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó. Bí mật kinh doanh mà bên làm thuê, bên thực hiện nhiệm vụ được giao có được trong khi thực hiện công việc được thuê hoặc được giao thuộc quyền sở hữu của bên thuê hoặc bên giao việc, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
[3] Trong các lĩnh vực xây dựng, nhà ở, đất đai, môi trường, tài nguyên, khiếu nại, tố cáo... - là các lĩnh vực có nhiều thông tin liên quan tới các cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân, pháp luật quy định cụ thể chủ thể có quyền tiếp cận thông tin trong các lĩnh vực này là “cơ quan, tổ chức, cá nhân” hoặc “tổ chức, cá nhân”, “cá nhân, tổ chức, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đại diện cộng đồng dân cư”, “cộng đồng dân cư trên địa bàn”. Quy định này mặc dù xác định rõ chủ thể được tiếp cận thông tin, nhưng thực tế đã bao quát tất cả các đối tượng trong xã hội và không giới hạn tới bất kỳ chủ thể nào. Điều đó có nghĩa mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân không phân biệt giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước... đều được tiếp cận thông tin trong các lĩnh vực này.